Truyện cổ tích Chăm nói về giá trị đích thực của đồng tiền làm chúng ta có những nhìn nhận khác, một suy nghĩ khác, các bạn cùng đọc truyện với mình nhé chi tiết truyện tại:(https://truyencotich.fun/blog-2264-truyen-hu-bac-cua-nguoi-cha-truyen-co-tich-cham.html)
1. Người con trai được nuông chiều
Ngày xưa, có một ông già làm ăn rất chăm chỉ. Ruộng lúa của ông rất tốt. Làm xong lúa, ông lại lên rừng chặt củi đốt than để đem bán. Mỗi lần bán than, ông lại cất riêng vài hào để dành. Đến khi tuổi già, ông đã để dành được một hũ [1] bạc.
Tuy nhà làm ăn no đủ, có tiền để dành, nhưng lúc nào ông cũng buồn vì cậu con trai chỉ thích chơi bời, lêu lổng [2]. Lúc còn bé, đứa con trai được mẹ nuông chiều, chỉ thích đi thả diều, đánh đáo. Khi lớn lên, anh ta cũng chỉ ở nhà vào lúc hai bữa cơm. Ông già đã khuyên bảo con rất nhiều lần. Mỗi bữa ăn, ông răn con một lần, trước khi đi ngủ, ông lại nhắc nhở thêm một lượt, nhưng anh ta vẫn giữ nguyên tật cũ.
2. Sự dung túng của người mẹ để có được hũ bạc của người cha
Một lần bị ốm, ông liền gọi vợ vào và nói:
– Tôi muốn trước khi nhắm mắt được trông thấy thằng con kiếm nổi bát cơm. Tôi đã để dành được một hũ bạc nhưng không nói cho bà biết. Tôi muốn cho con. Nhưng cho nó bây giờ thì làm hại nó. Bà hãy bảo nó đi làm. Bao giờ nó tự tay kiếm được một ít bạc vụn về đây thì tôi cho nó hũ bạc.
Nghe chồng nói, người vợ ngậm ngùi, nhưng vẫn sợ con trai phải đi làm lụng vất vả. Bà liền dồn số tiền dành dụm được, kín đáo đem cho con trai. Anh kia mang số tiền của mẹ cho, đi chơi vài ngày, khi túi chỉ còn vài hào, anh mới trở về đưa cho bố. Ông lão liền cầm mấy hào bạc vứt xuống ao. Bà vợ tiếc của, tái cả mặt, còn anh con trai thì thản nhiên nhìn đi chỗ khác.
– Tiền này không phải tự tay nó kiếm ra!
Ông lão chỉ nói gọn như vậy, rồi vào giường nằm. Bấy giờ, bà mẹ lại nói với con:
– Cha con sống lâu, hiểu biết nhiều, không thể lừa được. Bây giờ mẹ cho con một ít tiền, con đi kiếm nơi nào làm ăn. Bao giờ làm được tiền hãy về. Cha mẹ đâu có sống đời [3] để nuôi con mãi được.
3. Giá trị của đồng tiền do chính mình làm ra
Người con trai nhận tiền của mẹ cho. Nhưng lần này tiền ít lắm. Anh cầm số tiền ít ỏi đó ra đi, mới có mấy hôm đã hết sạch. Đói bụng, anh phải đi xin cơm ăn. Nhưng thấy anh khỏe mạnh nên không ai cho. Thấy giữa đồng có hai người đang tát nước, anh lần đến. Trông rá cơm hẩm [4] của hai người để trên bờ, anh ngửa tay xin ăn, nhưng hai người tát nước đáp:
– Rá cơm ấy là công tát nước cái đầm [5] này. Tát cạn đầm mới được bằng ấy cơm. Anh có muốn ăn thì vào đây tát với chúng tôi một lúc đã.
Đói quá, anh đành phải tát nước. Lúc đầu, anh ngã xiêu ngã vẹo, sau cũng tát được lưng gầu nước. Đến lúc ăn cơm, anh ta ngồi khóc. Anh đã biết muốn được bát cơm phải tốn bao nhiêu sức lực.
Tát xong đầm nước, anh vào làng tìm việc làm thuê. Một nhà thuê anh xay thóc và giã gạo. Xay hết một thúng thóc và giã trắng bốn cối gạo thì được trả công hai bát gạo. Công làm thì nhiều mà gạo được ít quá, anh chẳng dám ăn cả, mỗi ngày chỉ nấu một bát chia làm hai bữa. Xay giã thuê suốt ba tháng, anh để dành được chín mươi bát gạo. Anh đem gạo bán được một ít tiền mang về đưa cho cha.
Bấy giờ đã sang đông, ông già càng yếu mệt. Một hôm, ông đang ngồi đốt lửa sưởi thì người con đưa tiền về. Tiện tay, ông ném luôn mấy hào bạc vào bếp lửa đang cháy. Anh con trai giật thót [6]. Không kể lửa bỏng, anh cho tay vào bếp, cào than, lấy mấy hào bạc ra. Ông già cười đến chảy nước mắt. Ông nắm tay con:1. Người con trai được nuông chiều
Ngày xưa, có một ông già làm ăn rất chăm chỉ. Ruộng lúa của ông rất tốt. Làm xong lúa, ông lại lên rừng chặt củi đốt than để đem bán. Mỗi lần bán than, ông lại cất riêng vài hào để dành. Đến khi tuổi già, ông đã để dành được một hũ [1] bạc.
Tuy nhà làm ăn no đủ, có tiền để dành, nhưng lúc nào ông cũng buồn vì cậu con trai chỉ thích chơi bời, lêu lổng [2]. Lúc còn bé, đứa con trai được mẹ nuông chiều, chỉ thích đi thả diều, đánh đáo. Khi lớn lên, anh ta cũng chỉ ở nhà vào lúc hai bữa cơm. Ông già đã khuyên bảo con rất nhiều lần. Mỗi bữa ăn, ông răn con một lần, trước khi đi ngủ, ông lại nhắc nhở thêm một lượt, nhưng anh ta vẫn giữ nguyên tật cũ.
2. Sự dung túng của người mẹ để có được hũ bạc của người cha
Một lần bị ốm, ông liền gọi vợ vào và nói:
– Tôi muốn trước khi nhắm mắt được trông thấy thằng con kiếm nổi bát cơm. Tôi đã để dành được một hũ bạc nhưng không nói cho bà biết. Tôi muốn cho con. Nhưng cho nó bây giờ thì làm hại nó. Bà hãy bảo nó đi làm. Bao giờ nó tự tay kiếm được một ít bạc vụn về đây thì tôi cho nó hũ bạc.
Nghe chồng nói, người vợ ngậm ngùi, nhưng vẫn sợ con trai phải đi làm lụng vất vả. Bà liền dồn số tiền dành dụm được, kín đáo đem cho con trai. Anh kia mang số tiền của mẹ cho, đi chơi vài ngày, khi túi chỉ còn vài hào, anh mới trở về đưa cho bố. Ông lão liền cầm mấy hào bạc vứt xuống ao. Bà vợ tiếc của, tái cả mặt, còn anh con trai thì thản nhiên nhìn đi chỗ khác.
– Tiền này không phải tự tay nó kiếm ra!
Ông lão chỉ nói gọn như vậy, rồi vào giường nằm. Bấy giờ, bà mẹ lại nói với con:
– Cha con sống lâu, hiểu biết nhiều, không thể lừa được. Bây giờ mẹ cho con một ít tiền, con đi kiếm nơi nào làm ăn. Bao giờ làm được tiền hãy về. Cha mẹ đâu có sống đời [3] để nuôi con mãi được.
3. Giá trị của đồng tiền do chính mình làm ra
Người con trai nhận tiền của mẹ cho. Nhưng lần này tiền ít lắm. Anh cầm số tiền ít ỏi đó ra đi, mới có mấy hôm đã hết sạch. Đói bụng, anh phải đi xin cơm ăn. Nhưng thấy anh khỏe mạnh nên không ai cho. Thấy giữa đồng có hai người đang tát nước, anh lần đến. Trông rá cơm hẩm [4] của hai người để trên bờ, anh ngửa tay xin ăn, nhưng hai người tát nước đáp:
– Rá cơm ấy là công tát nước cái đầm [5] này. Tát cạn đầm mới được bằng ấy cơm. Anh có muốn ăn thì vào đây tát với chúng tôi một lúc đã.
Đói quá, anh đành phải tát nước. Lúc đầu, anh ngã xiêu ngã vẹo, sau cũng tát được lưng gầu nước. Đến lúc ăn cơm, anh ta ngồi khóc. Anh đã biết muốn được bát cơm phải tốn bao nhiêu sức lực.
Tát xong đầm nước, anh vào làng tìm việc làm thuê. Một nhà thuê anh xay thóc và giã gạo. Xay hết một thúng thóc và giã trắng bốn cối gạo thì được trả công hai bát gạo. Công làm thì nhiều mà gạo được ít quá, anh chẳng dám ăn cả, mỗi ngày chỉ nấu một bát chia làm hai bữa. Xay giã thuê suốt ba tháng, anh để dành được chín mươi bát gạo. Anh đem gạo bán được một ít tiền mang về đưa cho cha.
Bấy giờ đã sang đông, ông già càng yếu mệt. Một hôm, ông đang ngồi đốt lửa sưởi thì người con đưa tiền về. Tiện tay, ông ném luôn mấy hào bạc vào bếp lửa đang cháy. Anh con trai giật thót [6]. Không kể lửa bỏng, anh cho tay vào bếp, cào than, lấy mấy hào bạc ra. Ông già cười đến chảy nước mắt. Ông nắm tay con:
– Con ơi! Cha sung sướng lắm rồi! Bây giờ cha đã tin con. Tiền đó chính tay con làm ra. Khi nào làm lụng vất vả mệt nhọc, người ta mới biết quý trọng đồng tiền của mình làm.
4. Niềm vui sướng của ông già khi trao hũ bạc cho con
Ông già đưa hũ bạc cho con và bảo:
– Nếu con không chịu làm lụng, dù cha có cho con một trăm hũ bạc thế này cũng không đủ. Nay con đã biết lao động, tiền bạc của con sẽ mãi mãi có thừa. Hũ bạc tiêu không bao giờ hết chính là hai bàn tay con đó.1. Người con trai được nuông chiều
Ngày xưa, có một ông già làm ăn rất chăm chỉ. Ruộng lúa của ông rất tốt. Làm xong lúa, ông lại lên rừng chặt củi đốt than để đem bán. Mỗi lần bán than, ông lại cất riêng vài hào để dành. Đến khi tuổi già, ông đã để dành được một hũ [1] bạc.
Tuy nhà làm ăn no đủ, có tiền để dành, nhưng lúc nào ông cũng buồn vì cậu con trai chỉ thích chơi bời, lêu lổng [2]. Lúc còn bé, đứa con trai được mẹ nuông chiều, chỉ thích đi thả diều, đánh đáo. Khi lớn lên, anh ta cũng chỉ ở nhà vào lúc hai bữa cơm. Ông già đã khuyên bảo con rất nhiều lần. Mỗi bữa ăn, ông răn con một lần, trước khi đi ngủ, ông lại nhắc nhở thêm một lượt, nhưng anh ta vẫn giữ nguyên tật cũ.
2. Sự dung túng của người mẹ để có được hũ bạc của người cha
Một lần bị ốm, ông liền gọi vợ vào và nói:
– Tôi muốn trước khi nhắm mắt được trông thấy thằng con kiếm nổi bát cơm. Tôi đã để dành được một hũ bạc nhưng không nói cho bà biết. Tôi muốn cho con. Nhưng cho nó bây giờ thì làm hại nó. Bà hãy bảo nó đi làm. Bao giờ nó tự tay kiếm được một ít bạc vụn về đây thì tôi cho nó hũ bạc.
Nghe chồng nói, người vợ ngậm ngùi, nhưng vẫn sợ con trai phải đi làm lụng vất vả. Bà liền dồn số tiền dành dụm được, kín đáo đem cho con trai. Anh kia mang số tiền của mẹ cho, đi chơi vài ngày, khi túi chỉ còn vài hào, anh mới trở về đưa cho bố. Ông lão liền cầm mấy hào bạc vứt xuống ao. Bà vợ tiếc của, tái cả mặt, còn anh con trai thì thản nhiên nhìn đi chỗ khác.
– Tiền này không phải tự tay nó kiếm ra!
Ông lão chỉ nói gọn như vậy, rồi vào giường nằm. Bấy giờ, bà mẹ lại nói với con:
– Cha con sống lâu, hiểu biết nhiều, không thể lừa được. Bây giờ mẹ cho con một ít tiền, con đi kiếm nơi nào làm ăn. Bao giờ làm được tiền hãy về. Cha mẹ đâu có sống đời [3] để nuôi con mãi được.
3. Giá trị của đồng tiền do chính mình làm ra
Người con trai nhận tiền của mẹ cho. Nhưng lần này tiền ít lắm. Anh cầm số tiền ít ỏi đó ra đi, mới có mấy hôm đã hết sạch. Đói bụng, anh phải đi xin cơm ăn. Nhưng thấy anh khỏe mạnh nên không ai cho. Thấy giữa đồng có hai người đang tát nước, anh lần đến. Trông rá cơm hẩm [4] của hai người để trên bờ, anh ngửa tay xin ăn, nhưng hai người tát nước đáp:
– Rá cơm ấy là công tát nước cái đầm [5] này. Tát cạn đầm mới được bằng ấy cơm. Anh có muốn ăn thì vào đây tát với chúng tôi một lúc đã.
Đói quá, anh đành phải tát nước. Lúc đầu, anh ngã xiêu ngã vẹo, sau cũng tát được lưng gầu nước. Đến lúc ăn cơm, anh ta ngồi khóc. Anh đã biết muốn được bát cơm phải tốn bao nhiêu sức lực.
Tát xong đầm nước, anh vào làng tìm việc làm thuê. Một nhà thuê anh xay thóc và giã gạo. Xay hết một thúng thóc và giã trắng bốn cối gạo thì được trả công hai bát gạo. Công làm thì nhiều mà gạo được ít quá, anh chẳng dám ăn cả, mỗi ngày chỉ nấu một bát chia làm hai bữa. Xay giã thuê suốt ba tháng, anh để dành được chín mươi bát gạo. Anh đem gạo bán được một ít tiền mang về đưa cho cha.
Bấy giờ đã sang đông, ông già càng yếu mệt. Một hôm, ông đang ngồi đốt lửa sưởi thì người con đưa tiền về. Tiện tay, ông ném luôn mấy hào bạc vào bếp lửa đang cháy. Anh con trai giật thót [6]. Không kể lửa bỏng, anh cho tay vào bếp, cào than, lấy mấy hào bạc ra. Ông già cười đến chảy nước mắt. Ông nắm tay con:
– Con ơi! Cha sung sướng lắm rồi! Bây giờ cha đã tin con. Tiền đó chính tay con làm ra. Khi nào làm lụng vất vả mệt nhọc, người ta mới biết quý trọng đồng tiền của mình làm.
4. Niềm vui sướng của ông già khi trao hũ bạc cho con
Ông già đưa hũ bạc cho con và bảo:
– Nếu con không chịu làm lụng, dù cha có cho con một trăm hũ bạc thế này cũng không đủ. Nay con đã biết lao động, tiền bạc của con sẽ mãi mãi có thừa. Hũ bạc tiêu không bao giờ hết chính là hai bàn tay con đó.
– Con ơi! Cha sung sướng lắm rồi! Bây giờ cha đã tin con. Tiền đó chính tay con làm ra. Khi nào làm lụng vất vả mệt nhọc, người ta mới biết quý trọng đồng tiền của mình làm.
4. Niềm vui sướng của ông già khi trao hũ bạc cho con
Ông già đưa hũ bạc cho con và bảo:
– Nếu con không chịu làm lụng, dù cha có cho con một trăm hũ bạc thế này cũng không đủ. Nay con đã biết lao động, tiền bạc của con sẽ mãi mãi có thừa. Hũ bạc tiêu không bao giờ hết chính là hai bàn tay con đó.
Các bạn đọc thêm nhiều truyện cổ tích hay tại: https://truyencotich.fun
Cảm ơn các bạn đã đọc, chúc các bạn có một ngày mới vui vẻ ! Hẹn gặp lại các bạn